le trung thu tren toan the gioi |
Hàn quốc
Lễ Trung thu ở Hàn Quốc được tổ chức vào ngày 15/8 theo lịch âm hàng năm, được gọi là Chuseok trong tiếng Hàn Quốc hay còn được biết đến với một tên khác là lễ hội ngày mùa (Harvest Festival). Có tên gọi này vì Trung thu thường được tổ chức sau một mùa gặt bội thu, người Hàn Quốc sử dụng các sản phẩm mới gặt hái được để chế biến các món ăn (thịt, cá, các loại rau, hoa quả, bánh gạo…) dâng lên tổ tiên.
Người phương Tây thường ví Trung thu của người Hàn Quốc giống như lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) của họ, nhưng có lẽ trung thu trong mắt người Hàn Quốc cũng quan trọng và thiêng liêng như Tết Nguyên Đán của Việt Nam vậy. Đây được xem là ngày lễ lớn nhất trong năm, mọi người cũng được nghỉ dài ngày (thông thường là 3 ngày). Những người làm ăn, sinh sống ở xa cũng nhân dịp này để trở về thăm quê hương.
Nhật bản
Tại Nhật Bản, trung thu được gọi là Tsukimi hay Otsukimi, nghĩa là “ngắm trăng”. Người ta quây quần bên nhau ngồi ngắm vẻ đẹp hoàn mỹ của vầng trăng và làm thơ. Người Nhật không ăn bánh Trung thu trong lúc ngắm trăng, mà thay vào đó là món bánh gạo nếp. Vì rằm tháng 8 cũng là lúc thu hoạch của các loại cây trồng, nên người Nhật cũng tổ chức các nghi lễ để cảm tạ sự ưu ái của thiên nhiên. Mặc dù lịch âm đã không được sử dụng từ sau cải cách Minh Trị, nhưng hiện nay người Nhật Bản vẫn giữ được thói quen đón Trung thu. Một số đền, chùa ở Nhật Bản cũng tổ chức lễ hội Trung thu theo truyền thống.Thái Lan
Người Thái gọi Tết Trung thu là “lễ cầu trăng”, vì vào đêm Trung thu, tất cả già trẻ gái trai đều phải tham gia lễ cúng trăng. Mọi người sẽ ngồi cầu nguyện và ban phước lành cho nhau trước một bàn thờ Quan Thế Âm Bồ Tát và Bát Tiên trong truyền thuyết của Trung Quốc. Trên bàn thờ còn quả đào và bánh Trung thu. Theo truyền thuyết của người Thái, nếu làm như vậy, Bát Tiên sẽ mang đào tới cung trăng để chúc thọ Quan Âm, và các vị thần tiên sẽ ban phước lành cho mọi người.
Trung quốc
Đối với người Trung Quốc, Tết Trung thu xuất hiện từ cách đây 3.000 năm và được tổ chức vào ngày 15 của tháng 8 âm lịch. Vào cuối mùa thu hoạch, các gia đình mừng được mùa với một bữa ăn lớn gồm bánh trung thu nhân đậu đỏ hoặc hạt sen.
Hầu hết các câu chuyện giải thích nguồn gốc của Tết Trung thu đều có liên quan tới truyền thuyết về nàng Hằng Nga sống trên cung trăng cùng với Thỏ ngọc. Truyền thuyết kể rằng, Hằng Nga là vợ của chàng thiện xạ Hậu Nghệ. Một ngày nọ, có 10 mặt trời cùng mọc trên bầu trời, gây ra thiên tai cho con người. Hậu Nghệ lấy cung bắn hạ 9 mặt trời và chỉ để lại một để mang lại ánh sáng. Thiên đình ngưỡng mộ tài năng của Hậu Nghệ và muốn mời chàng đến cõi tiên.
Hậu Nghệ không muốn rời bỏ Hằng Nga để sống cuộc sống bất tử một mình, nên chàng để vợ giữ lấy thuốc tiên. Một học trò của Hậu Nghệ biết được bí mật ấy, và vì ghen tức với tài năng của chủ, hắn đợi đến ngày thứ 15 của tháng 8 để xông vào nhà Hậu Nghệ. Nhân lúc Hậu Nghệ đi vắng, hắn đòi Hằng Nga phải đưa thuốc tiên cho hắn, nhưng Hằng Nga từ chối. Nàng nuốt lấy thuốc vào trong người rồi bay lên trời. Vì thương chồng, Hằng Nga chọn cung trăng làm nơi ở để được nhìn thấy Hậu Nghệ.
Khi Hậu Nghệ biết chuyện, chàng vô cùng thương xót và buồn bã. Chàng mang những thứ bánh trái mà Hằng Nga thích đặt ở sân vườn nhà để cúng tế cho Hằng Nga. Mọi người sớm biết được hành động ấy, và vì cũng thương tiếc nàng Hằng Nga, họ cùng tham gia vào việc cúng tế với Hậu Nghệ.
Trong ngày lễ Trung thu, trăng luôn tròn và sáng nhất trong năm. Các bậc cha mẹ treo đèn kết hoa cho bọn trẻ như một biểu tượng của sự khai hóa. Người ta nói rằng đèn trung thu được làm lần đầu tiên vào đời nhà Đường để tượng trưng cho sự bội thu mùa màng và làm đồ chơi. Trước khi nó trở thành đèn ông sao như ngày nay, người ta dùng những nhân vật thần thoại, những loài vật hay biểu tượng của văn hóa địa phương để trang trí lên đèn.
Bánh trung thu là một trong những biểu tượng đặc trưng của Tết trung thu. Chiếc bánh hình tròn đại diện cho sự no đủ và đoàn kết của gia đình. Có rất nhiều cách giải thích về nguồn gốc của bánh trung thu, một trong số đó cho rằng hoàng đế Đường Thái Tông đã được tặng một chiếc bánh trung thu làm quà mừng ông đánh thắng giặc Hung Nô. Hôm đó là ngày rằm tháng 8, và Thái Tông đã chỉ tay lên mặt trăng mà nói rằng ông muốn cùng các quần thần ăn bánh đêm nay. Tục lệ từ đấy phát triển với người Trung Quốc.
Ở một số nơi tại Trung Quốc, ngoài việc treo đèn kết hoa và làm bánh, những người Hàn thiểu số ở vùng núi Trường Bạch (giáp ranh biên giới Bắc Triều Tiên) còn làm những ngôi nhà làm từ gỗ thông và gọi đó là “ngôi nhà mặt trăng”. Người Thổ ở Cam Túc đặt một chậu nước sạch ở sân nhà để mặt nước phản chiếu ánh trăng, và sau đó họ dùng cành cây đánh vào mặt nước trong đêm Trung thu.
Hầu hết các câu chuyện giải thích nguồn gốc của Tết Trung thu đều có liên quan tới truyền thuyết về nàng Hằng Nga sống trên cung trăng cùng với Thỏ ngọc. Truyền thuyết kể rằng, Hằng Nga là vợ của chàng thiện xạ Hậu Nghệ. Một ngày nọ, có 10 mặt trời cùng mọc trên bầu trời, gây ra thiên tai cho con người. Hậu Nghệ lấy cung bắn hạ 9 mặt trời và chỉ để lại một để mang lại ánh sáng. Thiên đình ngưỡng mộ tài năng của Hậu Nghệ và muốn mời chàng đến cõi tiên.
Hậu Nghệ không muốn rời bỏ Hằng Nga để sống cuộc sống bất tử một mình, nên chàng để vợ giữ lấy thuốc tiên. Một học trò của Hậu Nghệ biết được bí mật ấy, và vì ghen tức với tài năng của chủ, hắn đợi đến ngày thứ 15 của tháng 8 để xông vào nhà Hậu Nghệ. Nhân lúc Hậu Nghệ đi vắng, hắn đòi Hằng Nga phải đưa thuốc tiên cho hắn, nhưng Hằng Nga từ chối. Nàng nuốt lấy thuốc vào trong người rồi bay lên trời. Vì thương chồng, Hằng Nga chọn cung trăng làm nơi ở để được nhìn thấy Hậu Nghệ.
Khi Hậu Nghệ biết chuyện, chàng vô cùng thương xót và buồn bã. Chàng mang những thứ bánh trái mà Hằng Nga thích đặt ở sân vườn nhà để cúng tế cho Hằng Nga. Mọi người sớm biết được hành động ấy, và vì cũng thương tiếc nàng Hằng Nga, họ cùng tham gia vào việc cúng tế với Hậu Nghệ.
Trong ngày lễ Trung thu, trăng luôn tròn và sáng nhất trong năm. Các bậc cha mẹ treo đèn kết hoa cho bọn trẻ như một biểu tượng của sự khai hóa. Người ta nói rằng đèn trung thu được làm lần đầu tiên vào đời nhà Đường để tượng trưng cho sự bội thu mùa màng và làm đồ chơi. Trước khi nó trở thành đèn ông sao như ngày nay, người ta dùng những nhân vật thần thoại, những loài vật hay biểu tượng của văn hóa địa phương để trang trí lên đèn.
Bánh trung thu là một trong những biểu tượng đặc trưng của Tết trung thu. Chiếc bánh hình tròn đại diện cho sự no đủ và đoàn kết của gia đình. Có rất nhiều cách giải thích về nguồn gốc của bánh trung thu, một trong số đó cho rằng hoàng đế Đường Thái Tông đã được tặng một chiếc bánh trung thu làm quà mừng ông đánh thắng giặc Hung Nô. Hôm đó là ngày rằm tháng 8, và Thái Tông đã chỉ tay lên mặt trăng mà nói rằng ông muốn cùng các quần thần ăn bánh đêm nay. Tục lệ từ đấy phát triển với người Trung Quốc.
Ở một số nơi tại Trung Quốc, ngoài việc treo đèn kết hoa và làm bánh, những người Hàn thiểu số ở vùng núi Trường Bạch (giáp ranh biên giới Bắc Triều Tiên) còn làm những ngôi nhà làm từ gỗ thông và gọi đó là “ngôi nhà mặt trăng”. Người Thổ ở Cam Túc đặt một chậu nước sạch ở sân nhà để mặt nước phản chiếu ánh trăng, và sau đó họ dùng cành cây đánh vào mặt nước trong đêm Trung thu.
Đài Loan
Ở Đài Loan, ngày tổ chức đêm rằm trung thu là ngày nghỉ lễ. Toàn dân tổ chức đón trung thu bằng các hoạt động nấu nướng ngoài trời. Thành phố Đài Bắc hiện có tới 11 công viên nằm bên cạnh sông hồ để phục vụ nhu cầu tổ chức trung thu của các gia đình, tại đây họ có thể nấu nướng, ăn uống và các gia đình có thể làm quen, chúc tụng nhau.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét